Chỉ số huyết học là gì? Các công bố khoa học về Chỉ số huyết học

Chỉ số huyết học là một bộ xét nghiệm y tế đơn giản để đánh giá các yếu tố liên quan đến huyết thanh và hồi cương, bao gồm các thành phần chính của máu như hồng...

Chỉ số huyết học là một bộ xét nghiệm y tế đơn giản để đánh giá các yếu tố liên quan đến huyết thanh và hồi cương, bao gồm các thành phần chính của máu như hồng cầu, bạch cầu và tiểu cầu. Các chỉ số huyết học cung cấp thông tin quan trọng về sức khỏe cơ bản của cơ thể, cho phép bác sĩ đánh giá chức năng của hệ thống huyết học và chẩn đoán các vấn đề y tế như thiếu máu, nhiễm trùng, dị tả hồng cầu, bệnh tim mạch và rối loạn đông máu.
Chỉ số huyết học bao gồm nhiều thành phần chính của máu:

1. Hồng cầu (RBC): Đo lượng hồng cầu trong máu. Hồng cầu chịu trách nhiệm mang oxy từ phổi đến các cơ và mô trong cơ thể. Một số chỉ số hồng cầu bao gồm:
- Số lượng hồng cầu (RBC count): Đo số lượng hồng cầu trong 1 microlit huyết tương.
- Hồng cầu trung bình (Mean Corpuscular Volume - MCV): Đo kích cỡ trung bình của hồng cầu.
- Nồng độ hemoglobin trung bình (Mean Corpuscular Hemoglobin Concentration - MCHC): Đo lượng hemoglobin trung bình trong mỗi hồng cầu.

2. Bạch cầu (WBC): Đo lượng bạch cầu trong máu, đây là những tế bào bảo vệ cơ thể chống lại nhiễm trùng và bệnh tật.
- Tổng số lượng bạch cầu (Total White Blood Cell count - WBC count): Đo số lượng tế bào bạch cầu trong 1 microlit huyết tương.
- Phân bố tế bào bạch cầu (White Blood Cell Differential): Đo tỷ lệ các loại tế bào bạch cầu khác nhau, bao gồm tế bào bạch cầu tổng hợp, bạch cầu T, bạch cầu B, bạch cầu hiếm và tế bào bạch cầu khác.

3. Tiểu cầu (Platelets): Đóng vai trò quan trọng trong quá trình đông máu và ngăn chặn chảy máu.
- Số lượng tiểu cầu (Platelet count): Đo số lượng tiểu cầu trong 1 microlitre huyết tương.
- Thời gian đông máu (Prothrombin Time - PT): Đo thời gian cần thiết để máu đông lại.

Các chỉ số huyết học cũng có thể bao gồm các chỉ số khác như hồng cầu phân bố động cơ (Red Cell Distribution Width - RDW), chỉ số màu sắc hồng cầu (Mean Corpuscular Hemoglobin - MCH) và hệ số tiểu cầu lớn (Platelet Large Cell Ratio - P-LCR).

Khi phân tích các chỉ số huyết học, bác sĩ có thể xác định các vấn đề y tế như thiếu máu, nhiễm trùng, rối loạn đông máu và các bệnh mạn tính khác.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "chỉ số huyết học":

SO SÁNH ĐỘ CHÍNH XÁC CỦA VIỆC ĐÁNH GIÁ CHỈ SỐ HUYẾT THANH HỌC BẰNG PHƯƠNG PHÁP CẢM QUAN THỊ GIÁC QUA BẢNG MÀU VỚI PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH TỰ ĐỘNG TRÊN MÁY SINH HÓA - MIỄN DỊCH
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 527 Số 1 - 2023
Giới thiệu: Chỉ số huyết thanh học được đánh giá bằng cảm quan thị giác tuy đơn giản, ít tốn kém, sử dụng tại nhiều phòng xét nghiệm nhưng rất chủ quan và độ chính xác chưa được xác thực. Việc xác định độ chính xác của phương pháp đánh giá bằng mắt và bằng máy là cần thiết để quản lý chất lượng mẫu tiền phân tích. Mục tiêu: Xác định độ chính xác của việc đánh giá chỉ số tán huyết (H), chỉ số vàng huyết thanh do tăng bilirubin (I) và chỉ số đục huyết thanh do tăng lipid máu (L) ở các mức nồng độ, bằng phương pháp cảm quan thị giác qua bảng màu so với phương pháp phân tích tự động trên máy sinh hoá-miễn dịch Architect Ci8200 (Abbott). Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 420 mẫu huyết thanh được thu thập từ 07/2020 đến 11/2020 tại khoa Xét Nghiệm, bệnh viện Nguyễn Tri Phương. Mẫu được đánh giá ba chỉ số huyết thanh song song bằng hai phương pháp cảm quan thị giác và bằng máy. Các kết quả được ghi nhận độc lập. Độ chính xác của hai phương pháp được đánh giá bằng các chỉ số: độ chính xác, độ nhạy, độ đặc hiệu, giá trị dự báo dương, giá trị dự báo âm. Kết quả: Trong 420 mẫu, có 121 mẫu không có chỉ số huyết thanh nào (28,8%), 260 mẫu có một chỉ số huyết thanh (61,9%) và 39 mẫu có nhiều hơn một chỉ số huyết thanh (9,3%). Đối với nhóm mẫu chỉ có một chỉ số huyết thanh: độ chính xác khi phân biệt giữa mức "có và không có" (0-1234) giữa phương pháp cảm quan thị giác và hệ thống máy cho chỉ số H, I và L lần lượt là 0,87; 0,72; 0,84. Đối với chỉ số H, độ chính xác giữa hai phương pháp ở các mức nồng độ 0-1; 1-2, 2-3, 3-4 lần lượt là 0,86; 0,76; 0,59; 0,53. Đối với chỉ số I, độ chính xác giữa hai phương pháp ở các mức nồng độ 0-1; 1-2, 2-3, 3-4 lần lượt là 0,72; 0,58; 0,50; 0,40. Đối với chỉ số L, độ chính xác giữa hai phương pháp ở các mức nồng độ 0-1; 1-2, 2-3, 3-4 lần lượt là 0,84; 0,57; 0,33; 0,50. Đối với mẫu có hai chỉ số trở lên, do sự tương tác của các chỉ số trong cùng mẫu, không xác định được độ chính xác giữa hai phương pháp. Kết luận: So với phương pháp đánh giá tự động bằng máy phương pháp đánh giá các chỉ số huyết thanh học bằng cảm quan thị giác có độ chính xác tốt trong việc phân biệt mẫu có hoặc không có chỉ số huyết thanh. Ở các mức nồng độ khác nhau đối với cùng chỉ số huyết thanh, phương pháp cảm quan thị giác ít chính xác trong việc phân loại.
#chỉ số huyết thanh #chỉ số tán huyết #chỉ số vàng do tăng bilirubin #chỉ số đục do tăng lipid
MỘT SỐ CHỈ SỐ HUYẾT HỌC VÀ SINH HÓA MÁU CỦA NGƯỜI BỆNH SUY THẬN MẠN LỌC MÁU CHU KỲ TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA TỈNH ĐIỆN BIÊN NĂM 2018
Lọc máu chu kỳ là biện pháp thay thế thận được áp dụng rộng rãi, tuy nhiên người bệnh cóthể gặp phải một số vấn đề như: Mất các chất dinh dưỡng trong quá trình lọc máu, giảm cácchất dinh dưỡng trong khẩu phần ăn. Việc khảo sát một số chỉ số huyết học và sinh hóa máu làrất quan trọng để đánh giá tình trạng suy dinh dưỡng, thiếu máu, giảm dự trữ sắt giúp cho việcđiều trị cũng như điều chỉnh chế độ dinh dưỡng cho người bệnh. Mục tiêu: Mô tả một số chỉsố huyết học và sinh hóa máu của người bệnh suy thận mạn lọc máu chu kỳ tại Bệnh viện đakhoa tỉnh Điện Biện năm 2018. Đối tượng nghiên cứu: 87 người bệnh suy thận mạn được lọcmáu chu kỳ từ tháng 8 đến tháng 12 năm 2018 tại khoa Thận nhân tạo Bệnh viện đa khoa tỉnhĐiện Biên. Phương pháp: nghiên cứu dịch tễ học mô tả qua điều tra cắt ngang có phân tích.Kết quả: trong số 87 người bệnh suy thận mạn được lọc máu chu kỳ thì tỷ lệ người bệnh thiếualbumin là 14,9%, tỷ lệ người bệnh bị thiếu máu là 78,2%, chủ yếu là thiếu máu nhẹ, tỷ lệ ngườibệnh thiếu sắt tế bào và dự trữ sắt thấp tương ứng là 100% và 63,2%. Kết luận: Việc phát hiệnngười bệnh thiếu máu, giảm dự trữ sắt và giảm albumin có vai trò quan trọng giúp chẩn đoánsuy dinh dưỡng và thiếu máu ở người bệnh lọc máu chu kỳ, từ đó giúp cho việc điều trị cũngnhư thay đổi chế độ ăn cho người bệnh.
#Lọc máu chu kỳ #dinh dưỡng #thiếu albumin #thiếu máu #tỉnh Điện Biên
ĐẶC ĐIỂM MỘT SỐ CHỈ SỐ HUYẾT HỌC VÀ ĐÔNG MÁU Ở BỆNH GAN DO RƯỢU
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 506 Số 1 - 2021
Mục tiêu: Xác định đặc điểm và mối liên quan một số chỉ số huyết học và đông máu với mô bệnh học ở bệnh gan do rượu. Đối tượng và phương pháp: Gồm 60 bệnh nhân mắc bệnh gan do rượu điều trị nội trú tại Bệnh viện Quân y 103, từ tháng 01/2015 đến 7/2017. Các chỉ số nghiên cứu là số lượng hồng cầu, hàm lượng hemoglobin, số lượng bạch cầu, số lượng tiểu cầu, tỷ lệ Prothrombin, thời gian APTT, nồng độ Fibrinogen và chỉ số INR. Kết quả và kết luận: 45,0% số bệnh nhân mắc bệnh gan do rượu giảm số lượng hồng cầu <4,2 T/l; 16,7% bệnh nhân giảm nồng độ hemoglobin <120 g/l và 35,0% số bệnh nhân giảm số lượng tiểu cầu <140 G/l. Nồng độ Hb và số lượng tiểu cầu tương quan nghịch với giai đoạn xơ hóa gan trên mô bệnh học (r= -0,25 và r= -0,28; p<0,05). Có 6,7% bệnh nhân giảm tỷ lệ Prothrombin <70%; có 3,3% bệnh nhân tăng chỉ số INR >1,3. Có 13,3% bệnh nhân giảm nồng độ Fibrinogen <2 g/l và 1,7% bệnh nhân có thời gian APTT kéo dài >40 giây. Tỷ lệ Prothrombin (%) tương quan nghịch với giai đoạn xơ hóa gan (r= -0,42; p<0,001), chỉ số INR tương quan thuận với giai đoạn xơ hóa gan trên mô bệnh học (r= 0,37; p<0,01).
#Bệnh gan do rượu #huyết học #đông máu
XÂY DỰNG KHOẢNG THAM CHIẾU CHO CÁC CHỈ SỐ HUYẾT HỌC Ở NGƯỜI TRƯỞNG THÀNH KHỎE MẠNH TẠI PHÒNG XÉT NGHIỆM TRƯỜNG ĐẠI HỌC KỸ THUẬT Y- DƯỢC ĐÀ NẴNG
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 512 Số 2 - 2022
Đặt vấn đề: Khoảng tham chiếu (KTC) là một khoảng giá trị, gồm giới hạn trên và giới hạn dưới, được xây dựng dựa trên nhóm quần thể những người khỏe mạnh. Việc xây dựng khoảng tham chiếu phù hợp cho phòng xét nghiệm là cần thiết để đánh giá rối loạn sinh lý, bệnh lý của cơ thể trong một quần thể nhất định. Do đó, chúng tôi thực hiện đề tài “Xây dựng khoảng tham chiếu cho các chỉ số huyết học ở người trưởng thành khỏe mạnh tại phòng Xét nghiệm Trường Đại học kỹ thuật Y- Dược Đà Nẵng”. Mục tiêu: (1) Thiết lập khoảng tham chiếu cho một số xét nghiệm huyết học: RBC, WBC, PLT, HB, HCT, MCV, MCH, MCHC ở người trưởng thành khỏe mạnh tại phòng xét nghiệm – Trường Đại học kỹ thuật Y – Dược Đà Nẵng. (2) Đánh giá sự khác biệt của khoảng tham chiếu ở một số chỉ số huyết học theo giới tính và độ tuổi. Đối tượng và phương pháp: là người khỏe mạnh từ 18-60 tuổi tham gia khám sức khỏe đạt loại I tại Trung tâm chẩn đoán Y khoa, Trường đại học Kỹ thuật Y – Dược Đà Nẵng. Nghiên cứu mô tả cắt ngang,cỡ mẫu: 418 người. Kết quả: KTC của nam cao hơn ở nữ đối với các chỉ số RBC, Hb, Hct, MCV, MCH, WBC, PLT và sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p < 0,05. KTC của chỉ số RBC, MCV, MCH ở nam trong độ tuổi từ 18 – 35 với 36 – 49 và 18 – 35 với 50 – 65 tuổi có sự khác biệt mang ý nghĩa thống kê với p <0,05. KTC của chỉ số MCV, MCH ở nữ trong độ tuổi từ 18 – 35 với 36 – 49 có sự khác biệt mang ý nghĩa thống kê với  p <0,05.
PHÂN TÍCH NGƯỠNG CHI TRẢ CHO MỘT NĂM SỐNG CÓ CHẤT LƯỢNG CỦA NGƯỜI BỆNH HEMOPHILIA A TẠI VIỆN HUYẾT HỌC - TRUYỀN MÁU TRUNG ƯƠNG
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 516 Số 2 - 2022
Hemophilia A là bệnh lý gây thiếu yếu tố đông máu phổ biến có chi phí điều trị cao gây gánh nặng kinh tế to lớn cho người bệnh, gia đình và xã hội. Vì vậy, việc đánh giá ngưỡng chi trả cho bệnh này là hết sức cần thiết, giúp xem xét khả năng tiếp cận của người bệnh cũng như đưa ra các chính sách hỗ trợ cần thiết. Nghiên cứu được thực hiện tại viện Huyết học - Truyền máu Trung ương trong giai đoạn từ 10/2021 đến 06/2022. Khảo sát trên 194 người bệnh với tỷ lệ nam giới là 100%.  Ngưỡng chi trả trên mỗi năm sống có chất lượng của người bệnh (WTP/QALY) hemophilia A có giá trị trung bình 164.841.827,72 VNĐ/QALY (95%CI: 118.514.386,40 -211.169.269,03 VNĐ/QALY). Các yếu tố có liên quan đến WTP/QALY của người bệnh bao gồm: tình trạng hôn nhân, trình độ học vấn, nơi cư trú, nghề nghiệp, độ tuổi, thu nhập trung bình mỗi tháng, hệ số chất lượng sống theo thang đo EQ-5D-5L và VAS.
#ngưỡng chi trả #một năm sống có chất lượng #viện Huyết học - Truyền máu Trung Ương #hemophilia A
Nồng độ SFLT-1, PLGF và tỷ số SFLT1/PLGF vào tuần thai thứ 24-28 ở thai phụ có nguy cơ cao bị tăng huyết áp thai kỳ nhưng không bị tiền sản giật tại Khoa Phụ Sản – Bệnh viện Đại học Y Dược tp. HCM
Tạp chí Phụ Sản - Tập 12 Số 4 - Trang 24-30 - 2014
Mở đầu: Rối loạn huyết áp thai kỳ theo Hiệp hội Sản Phụ hoa Hoa Kỳ năm 2013 được chia thành 5 nhóm: tiền sản giật / sản giật (TSG/SG), tăng huyết áp (THA) mạn tính, TSG trên nền THA mạn tính, THA thai kỳ hoặc THA do mang thai nhưng không bị TSG (THATK) và THA hậu sản. Trong tất cả các y văn từ xưa đến nay đều đưa ra tiêu chuẩn THA như điều kiện tiên quyết chẩn đoán TSG. Tuy nhiên, không phải tất cả các trường hợp thai phụ có tình trạng THATK đều xuất hiện hội chứng TSG. Nguy cơ TSG của thai phụ càng cao nếu có xuất hiện THATK, và ranh giới chuyển từ THATK sang TSG cũng rất mong manh. Việc tìm kiếm một dấu chỉ khác báo hiệu nguy cơ TSG là rất cần thiết trong bối cảnh chăm sóc sức khỏe hiện nay, khi nhu cầu sàng lọc, tiên đoán và dự phòng bệnh tật ngày càng tăng cao. Yếu tố có liên quan đến tạo mạch và kháng tạo mạch được sử dụng nhiều trên thế giới, và cũng chứng minh hiệu quả của nó trong tiên đoán và chẩn đoán sớm hội chứng TSG qua nhiều nghiên cứu là sFlt-1 (Soluble fms-like tyrosine kinase 1) và PlGF (Placental Growth Factor). Một phần không thể thiếu trong tiến trình đưa ra một tiêu chuẩn tiên đoán sớm TSG dựa vào nồng độ sFlt-1 và PlGF là cần xác định các giá trị bình thường của nồng độ các yếu tố này trong thai kỳ, đặc biệt là giai đoạn ba tháng giữa thai kỳ ở các thai phụ không THA, hoặc THATK nhưng không xuất hiện TSG. Từ đó tạo ra tiền đề để tiến hành phân tích một bước cao hơn, cung cấp giá trị ngưỡng tham chiếu của sFlt-1, PlGF, tỷ số sFlt-1/PlGF phục vụ mục đích tiên đoán TSG. Đề tài: “Nồng độ sFlt-1, PlGF và tỷ số sFlt-1/PlGF vào tuần thai thứ 24-28 ở thai phụ có nguy cơ cao THATK nhưng không xuất hiện hội chứng TSG tại Khoa Phụ sản – Bệnh viện Đại học Y Dược Thành Phố Hồ Chí Minh”. Mục tiêu: Xác định nồng độ sFlt-1, PlGF và tỷ số sFlt-1/PlGF vào thời điểm 24-28 tuần thai ở các thai phụ có nguy cơ cao THATK nhưng không xuất hiện hội chứng TSG, và sự khác biệt của các yếu tố này giữa các thai phụ THATK so với các thai phụ không THA. Đối tượng nghiên cứu: Tất cả các thai phụ có nguy cơ cao THATK nhưng không xuất hiện TSG cho đến cuối thai kỳ đến khám tại Khoa Phụ sản Bệnh viện Đại Học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh từ 9/2012 đến 8/2013. Phương pháp nghiên cứu: Sử dụng phương pháp nghiên cứu bệnh chứng lồng trong đoàn hệ. Cỡ mẫu: Các thai phụ được chọn vào khi đang mang thai từ tuần 24-28 của thai kỳ, không bị TSG theo tiêu chuẩn ACOG (không bị vừa cao huyết áp, vừa tiểu đạm xuất hiện sau tuần lễ thứ 20 của thai kỳ), có nguy cơ cao, và đồng ý tham gia nghiên cứu. Nghiên cứu loại trừ các thai phụ có vấn đề về tâm thần và những thai phụ không hợp tác hoặc tự nguyện bỏ ngang nghiên cứu. Toàn bộ các thai phụ không xuất hiện hội chứng TSG cho đến khi sanh nhưng có tình trạng THATK được chọn vào nhóm bệnh. Tương ứng với mỗi trường hợp bệnh, chọn trong nhóm thai phụ không THATK tương ứng bắt cặp một cách tương đối theo tuổi mẹ với tỷ lệ 1 bệnh : 5 chứng. Nghiên cứu đã tiến hành trên 84 bệnh nhân với tỷ lệ 14 bệnh nhân THATK : 70 thai phụ không THATK. Như vậy, nhóm thai phụ được chọn phân tích là 84 thai phụ. Tuy nhiên, trong quá trình tiến hành xét nghiệm, có 1 mẫu của bệnh nhân THATK bị hỏng. Như vậy nghiên cứu chỉ khảo sát được tổng mẫu là 83 đối tượng, trong đó có 13 mẫu bệnh nhân THATK. Phương pháp lẫy mẫu: Lấy máu tĩnh mạch tại phòng xét nghiệm, cho vào ống xét nghiệm không có chất chống đông, quay ly tâm với tốc độ 2000 vòng/phút, rút huyết thanh, lưu trữ ở nhiệt độ âm 80oC (phòng xét nghiệm Bộ môn Sinh học phân tử, Đại Học Y Dược TP HCM). Sau khi sản phụ sanh xong, các sản phụ được chọn vào nhóm bệnh, và nhóm chứng. Tiến hành phân tích mẫu máu được lưu trữ của các thai phụ vào tuần thứ 24-28 ở thai phụ không TSG để xác định nồng độ sFlt-1 và PlGF. Công cụ nghiên cứu: Nghiên cứu sử dụng bảng câu hỏi, hồ sơ bệnh án, hồ sơ quản lý thai kỳ, kết quả khám và xét nghiệm của thai phụ để khai thác thông tin. Số liệu được mã hóa và phân tích bằng phần mềm Stata 12. Kết quả: Nồng độ sFlt-1, PlGF huyết tương, và tỷ số sFlt-1/PlGF ở tuần thai 24-28 của thai phụ không có hội chứng TSG tập trung tại khoảng trung vị và tứ phân vị lần lượt là 1.388 pg/ml (752-1.892 pg/ml), 533 pg/ml (369-823 pg/ml), và 2 (1,3-3,4). Tuy so với nhóm thai phụ không THA, ở nhóm thai phụ THATK có nồng độ sFlt-1 và PlGF huyết tương thấp hơn, tỷ số sFlt-1/PlGF cao hơn, nhưng sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê với p tương ứng là 0,254, 0,304, 0,475. Có mối tương quan thuận giữa nồng độ PlGF với tuổi của thai phụ trong nhóm chứng là có ý nghĩa thống kê với r=0,298 và p=0,012. Như vậy, nồng độ PlGF tăng dần theo tuổi của thai phụ không THATK. Kết luận: Nồng độ của sFlt-1, PlGF huyết tương, và tỷ số sFlt-1/PlGF ở tuần thai 24-28 của thai phụ không có hội chứng TSG là rất khác nhau trong các nghiên cứu đã thực hiện trước đây, cũng như so với nghiên cứu của chúng tôi. Chính vì vậy, để đưa ra được giá trị tham chiếu làm cơ sở tiến đến một tiêu chuẩn mới tiên đoán TSG, nghiên cứu tiếp theo cần được tiến hành trên cỡ mẫu lớn hơn, và nhấn mạnh trên cả nhóm không THATK, THATK nhưng không có TSG, và nhóm có hội chứng TSG (sớm, muộn, nhẹ, nặng), trên đối tượng thai phụ VIệt Nam.
#sFlt-1/PlGF
PHÂN TÍCH KẾT QUẢ MỘT SỐ CHỈ SỐ HUYẾT HỌC, MIỄN DỊCH Ở TRẺ SƠ SINH ĐỦ THÁNG NHIỄM KHUẨN HUYẾT TẠI BỆNH VIỆN NHI TRUNG ƯƠNG 2020
Tạp chí Y học Cộng đồng - Tập 64 Số 5 - 2023
Mục tiêu: Xác định giá trị các chỉ số sinh hóa, huyết học ở trẻ sơ sinh đủ tháng nhiễm khuẩn huyết giúp cho đánh giá vai trò các chỉ số trong chẩn đoán. Phương pháp nghiên cứu: Đề tài được thiết kế bằng phương pháp nghiên cứu mô tả thực nghiệm tại labo. Kết quả: Nồng độ Hct trung bình là 40,3% ± 7,3%. Tỷ lệ thiếu Hct chung là 72,9%(62/85). Tỷ lệ tăng số lượng bạch cầu chung ở trẻ sơ sinh đủ tháng nhiễm khuẩn huyết là 41,2%. Số lượng bạch cầu trung bình/L máu ngoại vi ở nhóm nhiễm khuẩn huyết là 16,78 ± 10,31 (109/L). Giá trị trung bình số lượng bạch cầu ở nhóm trẻ nhiễm khuẩn huyết do Gram (+) là 19,48 ± 11,22, do Gram (-) 19,97 ± 13,45 và do nấm 17,17 ± 10,05. Khác biệt không có ý nghĩa thống kê về giá trị trung bình số lượng bạch cầu ở từng căn nguyên với các giá trị 19,48 ± 11,22 do S. aureus so với 19,48 ± 11,22 do K. pneumonia, 19,97 ± 13,45 do E.coli, 17,17 ± 10,05 do agalactiae, 11,75 ± 7,46 do nấm Candida và 17,42 ± 10,80 do các nguyên nhân khác, với p > 0,05. Số lượng trung bình tiểu cầu trong máu là 211,69 ± 204,45, có 49,6% trẻ có giảm tiểu cầu (tiểu cầu < 100x109/L). Nồng độ CRP trung bình trong máu ở trẻ sơ sinh đủ tháng nhiễm khuẩn huyết là 84,2 ± 76,8 mg/L. Có 88,3% (75/85) số trẻ tăng CRP trong máu. Kết luận: Nồng độ Hct trung bình là 40,3% ± 7,3%. Tỷ lệ thiếu Hct chung là 72,9%. Tỷ lệ tăng số lượng bạch cầu 41,2%. Số lượng bạch cầu trung bình/L máu là 16,78 ± 10,31. Số lượng tiểu cầu trung bình trong máu là 211,69 ± 204,45, có 49,6% giảm tiểu cầu. Tỷ lệ tăng CRP là 88,3%.
#Nhiễm khuẩn huyết #sơ sinh #đủ tháng.
KHẢO SÁT VAI TRÒ CỦA DỊCH ÉP TỎI LÝ SƠN LÊN MỘT SỐ CHỈ SỐ HUYẾT HỌC VÀ CẤU TRÚC GAN, THẬN, LÁCH CHUỘT NHẮT TRẮNG (Mus musculus var. albino) BỊ NHIỄM CHÌ
  Tỏi ( Allium sativum ) là một loại dược liệu được biết đến với khả năng giảm tác động của chì, một kim loại nặng độc hại với sức khỏe và cấu trúc của các cơ quan. Nghiên cứu này tập trung khảo sát hiệu quả của dịch ép tỏi Lý Sơn trong việc bảo vệ chống lại độc tính chì, qua các chỉ số huyết học và cấu trúc gan, thận và lách chuột. 48 chuột, chia thành 6 nghiệm thức: đối chứng (ĐC); chì (Pb); nitrate (N); tỏi (T500); chì kết hợp với dịch ép tỏi Lý Sơn ở liều 250 mg/kg/bw (PbT250); và chì kết hợp với dịch ép tỏi Lý Sơn ở liều 500 mg/kg/bw (PbT500), kéo dài trong 8 tuần. Kết quả cho thấy dịch ép tỏi Lý Sơn (250 mg/kg trọng lượng cơ thể) ban đầu có tác dụng duy trì ổn định các chỉ số huyết học (số lượng tế bào hồng cầu, tiểu cầu, hematocrit) và cấu trúc mô học của gan và thận dưới tác động của chì. Tuy nhiên, tác dụng này chưa được thể hiện rõ trên số lượng tế bào bạch cầu, chỉ số hemoglobin và cấu trúc mô học của lách. Để đánh giá toàn diện hiệu quả bảo vệ chống lại độc tính chì của dịch ép tỏi Lý Sơn, nghiên cứu cần thực hiện các chỉ số sinh hoá máu chuột và kéo dài thời gian nghiên cứu.
#garlic juice #lead toxicity #Ly Son garlic #mouse blood cells
NGHIÊN CỨU SỰ THAY ĐỔI MỘT SỐ CHỈ SỐ HUYẾT HỌC Ở BỆNH NHÂN TIM BẨM SINH TRẺ EM ĐIỀU TRỊ TẠI TRUNG TÂM TIM MẠCH - BỆNH VIỆN E TỪ THÁNG 1 NĂM 2013 ĐẾN THÁNG 5 NĂM 2015
Các dị tật bẩm sinh của tim ở trẻ em có thể có một số thay đổi về một số chỉ số huyết học. Mục tiêu: tìm hiểu sự thay đổi của một số chỉ số máu ngoại vi ở bệnh nhân tim bẩm sinh trẻ em. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 1145 bệnh nhân trẻ em mắc bệnh tim bẩm sinh được tiến hành nghiên cứu. Kết quả: Về hệ nhóm máu ABO có 43,9 % nhóm máu O; 29,4 % nhóm máu B; 21,7% nhóm máu A và 5% nhóm máu AB; về hệ nhóm máu Rh (D) có Rh (D) dương chiếm 99.91% và Rh(D) âm chiếm 0,09%. Tăng hồng cầu chiếm 54,5%. Số lượng bạch cầu ở trẻ từ 0 đến 5 tuổi là 11,25±4,03; với trẻ từ 6 đến 17 tuổi là 8,83±3,07. Số lượng tiểu cầu bình thường chiếm 81,1% tỷ lệ tiểu cầu thấp chiếm 1,83% tỷ lệ số lượng tiểu cầu cao là 7,86%. INR kéo dài chiếm 13,8%, APTT r tăng ở 45,85%. Kết luận: những thay đổi chỉ số về huyết học đã được mô tả ở bệnh nhân tim bẩm sinh trẻ em.
MỘT SỐ CHỈ SỐ HUYẾT HỌC, ĐÔNG MÁU VÀ MỐI LIÊN QUAN Ở BỆNH NHÂN UNG THƯ PHỔI NGUYÊN PHÁTTẠI VIỆN HUYẾT HỌC – TRUYỀN MÁU TRUNG ƯƠNG GIAI ĐOẠN 2020 – 2022
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 523 Số 2 - 2023
Bệnh lý ung thư phổi nguyên phát là bệnh lý ác tính ngoài hệ tạo máu; tuy nhiên, nhiều nghiên cứu trên thế giới cho thấy sự biến đổi đa dạng về huyết học và đông máu phát sinh trong quá trình tiến triển và điều trị bệnh. Mục tiêu: (1) Mô tả một số chỉ số huyết học, đông máu trên nhóm bệnh nhân ung thư phổi nguyên phát tại Viện Huyết học – Truyền máu Trung Ương giai đoạn 2020 – 2022. (2) Nhận xét mối liên quan giữa một số chỉ số huyết học, đông máu và đặc điểm của đối tượng nghiên cứu. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 34 bệnh nhân điều trị lần đầu tại địa điểm nghiên cứu trong thời gian nghiên cứu, được chẩn đoán ung thư phổi trước thời điểm nhập viện. Kết quả nghiên cứu: Nhóm tuổi 50-64 chiếm tỉ lệ cao nhất với 76.5%. Tỉ lệ nam:nữ ~ 8:1. Tỉ lệ tăng bạch cầu lên tới hơn 40% với chỉ số trung bình là 16.13 ± 23.29 G/L. Gần 50% đối tượng có tăng số lượng tiểu cầu với trung bình là 511.35 ± 511.67 G/L. 60% bệnh nhân có nguy cơ huyết khối trung bình – cao theo thang điểm Khorana, cần điều trị dự phòng. Chỉ số D-dimer tăng ở 82% bệnh nhân, và 80% có tăng nồng độ fibrinogen với giá trị trung bình lần lượt là 2061.97 ± 2180.45 ng/ml và 5.22 ± 1.33 g/l. Chưa thấy có sự khác biệt về mặt thống kê khi so sánh trung bình và tỉ lệ tăng các chỉ số huyết học, đông máu của hai nhóm đối tượng chưa và đã điều trị ung thư phổi bằng các phương pháp khác nhau. Nồng độ Fibrinogen và số lượng tiểu cầu ở đối tượng nghiên cứu có mối tương quan chặt chẽ với hệ số tương quan r=0,6. Kết luận: Đối tượng nghiên cứu có một số chỉ số huyết học, đông máu xu hướng tăng cao với nguy cơ huyết khối dựa theo thang điểm Khorana. Fibrinogen và tiểu cầu có mối tương quan chặt chẽ với nhau. Không có sự khác biệt giữa nhóm đã điều trị và chưa điều trị ung thư phổi. Những bệnh nhân có tăng bạch cầu, tiểu cầu chưa rõ nguyên nhân nên phối hợp kiểm tra xét nghiệm đông máu và tầm soát ung thư phổi.
#Ung thư phổi #ung thư phổi nguyên phát #chỉ số huyết học #đông máu
Tổng số: 51   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6