Chỉ số huyết học là gì? Các công bố khoa học về Chỉ số huyết học

Chỉ số huyết học là một bộ xét nghiệm y tế đơn giản để đánh giá các yếu tố liên quan đến huyết thanh và hồi cương, bao gồm các thành phần chính của máu như hồng...

Chỉ số huyết học là một bộ xét nghiệm y tế đơn giản để đánh giá các yếu tố liên quan đến huyết thanh và hồi cương, bao gồm các thành phần chính của máu như hồng cầu, bạch cầu và tiểu cầu. Các chỉ số huyết học cung cấp thông tin quan trọng về sức khỏe cơ bản của cơ thể, cho phép bác sĩ đánh giá chức năng của hệ thống huyết học và chẩn đoán các vấn đề y tế như thiếu máu, nhiễm trùng, dị tả hồng cầu, bệnh tim mạch và rối loạn đông máu.
Chỉ số huyết học bao gồm nhiều thành phần chính của máu:

1. Hồng cầu (RBC): Đo lượng hồng cầu trong máu. Hồng cầu chịu trách nhiệm mang oxy từ phổi đến các cơ và mô trong cơ thể. Một số chỉ số hồng cầu bao gồm:
- Số lượng hồng cầu (RBC count): Đo số lượng hồng cầu trong 1 microlit huyết tương.
- Hồng cầu trung bình (Mean Corpuscular Volume - MCV): Đo kích cỡ trung bình của hồng cầu.
- Nồng độ hemoglobin trung bình (Mean Corpuscular Hemoglobin Concentration - MCHC): Đo lượng hemoglobin trung bình trong mỗi hồng cầu.

2. Bạch cầu (WBC): Đo lượng bạch cầu trong máu, đây là những tế bào bảo vệ cơ thể chống lại nhiễm trùng và bệnh tật.
- Tổng số lượng bạch cầu (Total White Blood Cell count - WBC count): Đo số lượng tế bào bạch cầu trong 1 microlit huyết tương.
- Phân bố tế bào bạch cầu (White Blood Cell Differential): Đo tỷ lệ các loại tế bào bạch cầu khác nhau, bao gồm tế bào bạch cầu tổng hợp, bạch cầu T, bạch cầu B, bạch cầu hiếm và tế bào bạch cầu khác.

3. Tiểu cầu (Platelets): Đóng vai trò quan trọng trong quá trình đông máu và ngăn chặn chảy máu.
- Số lượng tiểu cầu (Platelet count): Đo số lượng tiểu cầu trong 1 microlitre huyết tương.
- Thời gian đông máu (Prothrombin Time - PT): Đo thời gian cần thiết để máu đông lại.

Các chỉ số huyết học cũng có thể bao gồm các chỉ số khác như hồng cầu phân bố động cơ (Red Cell Distribution Width - RDW), chỉ số màu sắc hồng cầu (Mean Corpuscular Hemoglobin - MCH) và hệ số tiểu cầu lớn (Platelet Large Cell Ratio - P-LCR).

Khi phân tích các chỉ số huyết học, bác sĩ có thể xác định các vấn đề y tế như thiếu máu, nhiễm trùng, rối loạn đông máu và các bệnh mạn tính khác.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "chỉ số huyết học":

Hình Thái Không Hoạt Động Trong Huyết của Protein Matrix Gla (ucMGP) Như Là Một Chỉ Số Sinh Học Đối Với Tình Trạng Canxi Hóa Mạch Máu Dịch bởi AI
Journal of Vascular Research - Tập 45 Số 5 - Trang 427-436 - 2008

<i>Mục tiêu:</i> Protein γ-carboxyglutamate (Gla) trong ma trận (MGP) là một loại protein phụ thuộc vào vitamin K và là một chất ức chế mạnh mẽ quá trình canxi hóa mạch máu. Sự thiếu hụt vitamin K dẫn đến sự hình thành MGP (ucMGP) không carboxyl hóa không hoạt động, tích lũy tại các vị trí canxi hóa động mạch. Chúng tôi giả thuyết rằng, do sự lắng đọng của ucMGP quanh các vị trí canxi hóa động mạch, phần lưu thông của ucMGP sẽ giảm xuống. Ở đây, chúng tôi báo cáo về sự phát triển của một xét nghiệm ucMGP và khả năng chẩn đoán của việc theo dõi mức ucMGP trong huyết thanh. <i>Phương pháp và Kết quả:</i> Một xét nghiệm dựa trên ELISA đã được phát triển cho phép xác định mức ucMGP trong khí huyết. Mức ucMGP trong huyết thanh đã được đo trong các đối tượng khỏe mạnh (n = 165) và bốn nhóm bệnh nhân; bệnh nhân trải qua nong động mạch (n = 30), bệnh nhân hẹp động mạch chủ (n = 25), bệnh nhân lọc máu (n = 52), và bệnh nhân canxi hóa mạch máu (n = 10). Tất cả bốn nhóm bệnh nhân có mức ucMGP thấp một cách đáng kể. Ở bệnh nhân nong động mạch và bệnh nhân hẹp động mạch chủ, có một số sự chồng chéo với nhóm chứng. Tuy nhiên, trong nhóm bệnh nhân lọc máu và canxi hóa, hầu như tất cả các đối tượng đều có mức ucMGP nằm dưới mức bình thường của người lớn. <i>Kết luận:</i> Mức ucMGP trong huyết thanh có thể được sử dụng như một chỉ số sinh học để xác định những người có nguy cơ phát triển tình trạng canxi hóa mạch máu. Xét nghiệm này có thể trở thành một công cụ quan trọng trong chẩn đoán tình trạng canxi hóa tim mạch.

#ucMGP #canxi hóa mạch máu #chỉ số sinh học #vitamin K #huyết thanh
Bệnh béo phì có liên quan đến kết quả kém sau khi ghép tế bào gốc huyết học đồng loại ở bệnh nhân mắc bệnh bạch cầu cấp Dịch bởi AI
Japanese Journal of Clinical Oncology - Tập 50 Số 8 - Trang 889-896 - 2020
Tóm tắt Mục tiêu

Quan hệ giữa chỉ số khối cơ thể và khả năng sống sót tổng thể đã gây tranh cãi ở những bệnh nhân mắc bệnh ác tính huyết học và trải qua quá trình ghép tế bào gốc huyết học.

Phương pháp

Chúng tôi đã thu thập dữ liệu của 686 bệnh nhân mắc bệnh bạch cầu cấp chỉ nhận một lần ghép tế bào gốc huyết học đồng loại tại trung tâm của chúng tôi từ năm 2008 đến 2017. Bệnh nhân được chia thành bốn nhóm (thiếu cân, cân nặng bình thường, thừa cân và béo phì) dựa trên chỉ số khối cơ thể trước khi ghép tế bào gốc huyết học.

Kết quả

56.4% bệnh nhân có chỉ số khối cơ thể bình thường, 17.3% thiếu cân, 20.4% thừa cân và 5.8% bị béo phì. Đối với theo dõi dài hạn, khả năng sống sót tổng thể ở nhóm bệnh nhân thừa cân (P = 0.010) và bệnh nhân bị béo phì (P = 0.065) thấp hơn rõ rệt so với bệnh nhân có cân nặng bình thường, và không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa các cá nhân thiếu cân và có cân nặng bình thường (P = 0.810). Kết quả cho thấy chỉ số khối cơ thể cao hơn liên quan đến khả năng sống sót tổng thể kém hơn (tỷ lệ nguy cơ: 1.79; khoảng tin cậy 95%: 1.33–2.40, P < 0.001) và thời gian sống sót không có bạch cầu (tỷ lệ nguy cơ: 1.78; khoảng tin cậy 95%: 1.35–2.34, P < 0.001). Thêm vào đó, những bệnh nhân có chỉ số khối cơ thể cao hơn có khả năng gặp vấn đề tái phát cao hơn (30.6 so với 20.9%, P < 0.001). Hơn nữa, tỷ lệ tử vong không liên quan đến tái phát ở bệnh nhân bị béo phì cao hơn có ý nghĩa thống kê so với bệnh nhân có cân nặng bình thường (22.5 so với 9.6%, P = 0.027). Ngoài ra, những cá nhân có vòng bụng lớn hơn có nguy cơ sống sót ngắn hơn (tỷ lệ nguy cơ: 1.73; khoảng tin cậy 95%: 1.29–2.31, P < 0.001) và tỷ lệ tái phát cao hơn (tỷ lệ nguy cơ: 1.78; khoảng tin cậy 95%: 1.29–2.45, P = 0.001) so với những người có vòng bụng nhỏ hơn.

Kết luận

Kết quả của chúng tôi chỉ ra rằng tình trạng béo phì ở giai đoạn trước khi ghép tế bào gốc huyết học, dù được xác định bởi chỉ số khối cơ thể cao hơn hay vòng bụng lớn hơn, có liên quan đến kết quả kém hơn.

#Béo phì #chỉ số khối cơ thể #ghép tế bào gốc huyết học #bệnh bạch cầu cấp #sống còn tổng thể
Mối quan hệ giữa lý thuyết về tâm trí và nhịp độ nhận thức chậm ở trẻ em trong độ tuổi đi học bị rối loạn tăng động giảm chú ý Dịch bởi AI
Clinical Child Psychology and Psychiatry - Tập 26 Số 4 - Trang 1137-1152 - 2021

Nhịp độ nhận thức chậm (SCT) được xem như một kiểu nhận thức-tình cảm. Kỹ năng lý thuyết về tâm trí (ToM) tạo thành nền tảng cho nhận thức và hành vi xã hội của con người. Mục tiêu của nghiên cứu này là đóng góp vào tài liệu về SCT bằng cách kiểm tra mối quan hệ giữa SCT và ToM nhận thức và cảm xúc ở trẻ em trong độ tuổi đi học bị rối loạn tăng động giảm chú ý (ADHD). Năm mươi trẻ em trong độ tuổi đi học bị ADHD (43 bé trai và bảy bé gái) và 40 trẻ phát triển bình thường (34 bé trai và sáu bé gái) đã được đánh giá bằng Thang đo chú ý của trẻ em Barkley được cha mẹ đánh giá và Danh sách kiểm tra hành vi trẻ em/6–18, các bài kiểm tra ToM nhận thức (ToM bậc một và bậc hai) và ToM cảm xúc (Bài kiểm tra Đọc suy nghĩ trong mắt và Bài kiểm tra Kết quả không mong đợi (UOT)). Phân tích hồi quy tuyến tính đa biến đã được thực hiện để xác định các biến có thể dự đoán mức độ SCT ở trẻ em mắc ADHD. Rối loạn tăng động giảm chú ý-không chú ý (Exp(B) = .334, p = .027), nội tâm hóa (Exp(B) = .305, p = .006), và điểm số UOT (Exp(B) = .933, p = .015) đã dự đoán đáng kể mức độ nghiêm trọng của SCT ở trẻ em bị ADHD. Mức độ nghiêm trọng của SCT có liên quan đáng kể đến kỹ năng ToM nhận thức bị suy giảm, được đo bằng ToM bậc hai (Exp(B) = 1.933, p = .045). Những phát hiện của chúng tôi có thể chỉ ra rằng ToM cảm xúc phát triển theo độ tuổi, và kỹ năng ToM nhận thức bị suy giảm có liên quan đến sự gia tăng mức độ nghiêm trọng của SCT.

#Nhịp độ nhận thức chậm #lý thuyết về tâm trí #rối loạn tăng động giảm chú ý #trẻ em #kỹ năng nhận thức #kỹ năng cảm xúc.
MỘT SỐ CHỈ SỐ HUYẾT HỌC VÀ SINH HÓA MÁU CỦA NGƯỜI BỆNH SUY THẬN MẠN LỌC MÁU CHU KỲ TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA TỈNH ĐIỆN BIÊN NĂM 2018
Lọc máu chu kỳ là biện pháp thay thế thận được áp dụng rộng rãi, tuy nhiên người bệnh cóthể gặp phải một số vấn đề như: Mất các chất dinh dưỡng trong quá trình lọc máu, giảm cácchất dinh dưỡng trong khẩu phần ăn. Việc khảo sát một số chỉ số huyết học và sinh hóa máu làrất quan trọng để đánh giá tình trạng suy dinh dưỡng, thiếu máu, giảm dự trữ sắt giúp cho việcđiều trị cũng như điều chỉnh chế độ dinh dưỡng cho người bệnh. Mục tiêu: Mô tả một số chỉsố huyết học và sinh hóa máu của người bệnh suy thận mạn lọc máu chu kỳ tại Bệnh viện đakhoa tỉnh Điện Biện năm 2018. Đối tượng nghiên cứu: 87 người bệnh suy thận mạn được lọcmáu chu kỳ từ tháng 8 đến tháng 12 năm 2018 tại khoa Thận nhân tạo Bệnh viện đa khoa tỉnhĐiện Biên. Phương pháp: nghiên cứu dịch tễ học mô tả qua điều tra cắt ngang có phân tích.Kết quả: trong số 87 người bệnh suy thận mạn được lọc máu chu kỳ thì tỷ lệ người bệnh thiếualbumin là 14,9%, tỷ lệ người bệnh bị thiếu máu là 78,2%, chủ yếu là thiếu máu nhẹ, tỷ lệ ngườibệnh thiếu sắt tế bào và dự trữ sắt thấp tương ứng là 100% và 63,2%. Kết luận: Việc phát hiệnngười bệnh thiếu máu, giảm dự trữ sắt và giảm albumin có vai trò quan trọng giúp chẩn đoánsuy dinh dưỡng và thiếu máu ở người bệnh lọc máu chu kỳ, từ đó giúp cho việc điều trị cũngnhư thay đổi chế độ ăn cho người bệnh.
#Lọc máu chu kỳ #dinh dưỡng #thiếu albumin #thiếu máu #tỉnh Điện Biên
SO SÁNH ĐỘ CHÍNH XÁC CỦA VIỆC ĐÁNH GIÁ CHỈ SỐ HUYẾT THANH HỌC BẰNG PHƯƠNG PHÁP CẢM QUAN THỊ GIÁC QUA BẢNG MÀU VỚI PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH TỰ ĐỘNG TRÊN MÁY SINH HÓA - MIỄN DỊCH
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 527 Số 1 - 2023
Giới thiệu: Chỉ số huyết thanh học được đánh giá bằng cảm quan thị giác tuy đơn giản, ít tốn kém, sử dụng tại nhiều phòng xét nghiệm nhưng rất chủ quan và độ chính xác chưa được xác thực. Việc xác định độ chính xác của phương pháp đánh giá bằng mắt và bằng máy là cần thiết để quản lý chất lượng mẫu tiền phân tích. Mục tiêu: Xác định độ chính xác của việc đánh giá chỉ số tán huyết (H), chỉ số vàng huyết thanh do tăng bilirubin (I) và chỉ số đục huyết thanh do tăng lipid máu (L) ở các mức nồng độ, bằng phương pháp cảm quan thị giác qua bảng màu so với phương pháp phân tích tự động trên máy sinh hoá-miễn dịch Architect Ci8200 (Abbott). Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 420 mẫu huyết thanh được thu thập từ 07/2020 đến 11/2020 tại khoa Xét Nghiệm, bệnh viện Nguyễn Tri Phương. Mẫu được đánh giá ba chỉ số huyết thanh song song bằng hai phương pháp cảm quan thị giác và bằng máy. Các kết quả được ghi nhận độc lập. Độ chính xác của hai phương pháp được đánh giá bằng các chỉ số: độ chính xác, độ nhạy, độ đặc hiệu, giá trị dự báo dương, giá trị dự báo âm. Kết quả: Trong 420 mẫu, có 121 mẫu không có chỉ số huyết thanh nào (28,8%), 260 mẫu có một chỉ số huyết thanh (61,9%) và 39 mẫu có nhiều hơn một chỉ số huyết thanh (9,3%). Đối với nhóm mẫu chỉ có một chỉ số huyết thanh: độ chính xác khi phân biệt giữa mức "có và không có" (0-1234) giữa phương pháp cảm quan thị giác và hệ thống máy cho chỉ số H, I và L lần lượt là 0,87; 0,72; 0,84. Đối với chỉ số H, độ chính xác giữa hai phương pháp ở các mức nồng độ 0-1; 1-2, 2-3, 3-4 lần lượt là 0,86; 0,76; 0,59; 0,53. Đối với chỉ số I, độ chính xác giữa hai phương pháp ở các mức nồng độ 0-1; 1-2, 2-3, 3-4 lần lượt là 0,72; 0,58; 0,50; 0,40. Đối với chỉ số L, độ chính xác giữa hai phương pháp ở các mức nồng độ 0-1; 1-2, 2-3, 3-4 lần lượt là 0,84; 0,57; 0,33; 0,50. Đối với mẫu có hai chỉ số trở lên, do sự tương tác của các chỉ số trong cùng mẫu, không xác định được độ chính xác giữa hai phương pháp. Kết luận: So với phương pháp đánh giá tự động bằng máy phương pháp đánh giá các chỉ số huyết thanh học bằng cảm quan thị giác có độ chính xác tốt trong việc phân biệt mẫu có hoặc không có chỉ số huyết thanh. Ở các mức nồng độ khác nhau đối với cùng chỉ số huyết thanh, phương pháp cảm quan thị giác ít chính xác trong việc phân loại.
#chỉ số huyết thanh #chỉ số tán huyết #chỉ số vàng do tăng bilirubin #chỉ số đục do tăng lipid
PHÂN TÍCH KẾT QUẢ MỘT SỐ CHỈ SỐ HUYẾT HỌC, MIỄN DỊCH Ở TRẺ SƠ SINH ĐỦ THÁNG NHIỄM KHUẨN HUYẾT TẠI BỆNH VIỆN NHI TRUNG ƯƠNG 2020
Tạp chí Y học Cộng đồng - Tập 64 Số 5 - 2023
Mục tiêu: Xác định giá trị các chỉ số sinh hóa, huyết học ở trẻ sơ sinh đủ tháng nhiễm khuẩn huyết giúp cho đánh giá vai trò các chỉ số trong chẩn đoán. Phương pháp nghiên cứu: Đề tài được thiết kế bằng phương pháp nghiên cứu mô tả thực nghiệm tại labo. Kết quả: Nồng độ Hct trung bình là 40,3% ± 7,3%. Tỷ lệ thiếu Hct chung là 72,9%(62/85). Tỷ lệ tăng số lượng bạch cầu chung ở trẻ sơ sinh đủ tháng nhiễm khuẩn huyết là 41,2%. Số lượng bạch cầu trung bình/L máu ngoại vi ở nhóm nhiễm khuẩn huyết là 16,78 ± 10,31 (109/L). Giá trị trung bình số lượng bạch cầu ở nhóm trẻ nhiễm khuẩn huyết do Gram (+) là 19,48 ± 11,22, do Gram (-) 19,97 ± 13,45 và do nấm 17,17 ± 10,05. Khác biệt không có ý nghĩa thống kê về giá trị trung bình số lượng bạch cầu ở từng căn nguyên với các giá trị 19,48 ± 11,22 do S. aureus so với 19,48 ± 11,22 do K. pneumonia, 19,97 ± 13,45 do E.coli, 17,17 ± 10,05 do agalactiae, 11,75 ± 7,46 do nấm Candida và 17,42 ± 10,80 do các nguyên nhân khác, với p > 0,05. Số lượng trung bình tiểu cầu trong máu là 211,69 ± 204,45, có 49,6% trẻ có giảm tiểu cầu (tiểu cầu < 100x109/L). Nồng độ CRP trung bình trong máu ở trẻ sơ sinh đủ tháng nhiễm khuẩn huyết là 84,2 ± 76,8 mg/L. Có 88,3% (75/85) số trẻ tăng CRP trong máu. Kết luận: Nồng độ Hct trung bình là 40,3% ± 7,3%. Tỷ lệ thiếu Hct chung là 72,9%. Tỷ lệ tăng số lượng bạch cầu 41,2%. Số lượng bạch cầu trung bình/L máu là 16,78 ± 10,31. Số lượng tiểu cầu trung bình trong máu là 211,69 ± 204,45, có 49,6% giảm tiểu cầu. Tỷ lệ tăng CRP là 88,3%.
#Nhiễm khuẩn huyết #sơ sinh #đủ tháng.
KHẢO SÁT KẾT QUẢ CHỈ SỐ ĐƯỜNG HUYẾT VÀ HUYẾT ÁP Ở NGƯỜI BỆNH ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TYPE 2 CÓ TĂNG HUYẾT ÁP SAU 03 THÁNG ĐIỀU TRỊ NGOẠI TRÚ TẠI BỆNH VIỆN TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 501 Số 2 - 2021
Nghiên cứu được thực hiện dựa trên 294 hồ sơ bệnh án của người bệnh được chẩn đoán đái tháo đường type 2 có tăng huyết áp đang điều trị ngoại trú tại Bệnh viện Trường Đại học Trà Vinh trong tháng 01/2020, theo dõi đến tháng 04/2020. Kết quả nghiên cứu cho thấy, tuổi trung bình của đối tượng nghiên cứu là 62,6 (± 9,4), đa số người bệnh ở lứa tuổi từ 50 trở lên (chiếm 92,5%). Tỷ lệ người bệnh thuộc giới nữ (70,1%) cao hơn so với giới nam (29,9%). Nhóm thuốc điều trị đái tháo đường được sử dụng nhiều nhất là biguanid và sulfonylurea, cụ thể là metformin (73,5%) và gliclazid (81,1%). Nhóm thuốc điều trị tăng huyết áp được sử dụng nhiều nhất là ức chế thụ thể (65,5%) và chẹn kênh calci (44,2%). Kết quả kiểm soát đường huyết lúc đói và huyết áp dựa trên tiêu chuẩn của Bộ Y tế và Hiệp hội Đái tháo đường Hoa Kỳ (ADA 2021), có 47,8% người bệnh đạt mục tiêu FPG, 43,5% người bệnh đạt mục tiêu huyết áp, trong đó có 24,2% người bệnh đạt cả 2 mục tiêu FPG và huyết áp. Kết quả này là cơ sở nhằm giúp bác sĩ đánh giá được hiệu quả kiểm soát các chỉ số xét nghiệm đường huyết và huyết áp, nâng cao chất lượng điều trị bệnh.
#đái tháo đường #tăng huyết áp #bệnh mãn tính
Nồng độ SFLT-1, PLGF và tỷ số SFLT1/PLGF vào tuần thai thứ 24-28 ở thai phụ có nguy cơ cao bị tăng huyết áp thai kỳ nhưng không bị tiền sản giật tại Khoa Phụ Sản – Bệnh viện Đại học Y Dược tp. HCM
Tạp chí Phụ Sản - Tập 12 Số 4 - Trang 24-30 - 2014
Mở đầu: Rối loạn huyết áp thai kỳ theo Hiệp hội Sản Phụ hoa Hoa Kỳ năm 2013 được chia thành 5 nhóm: tiền sản giật / sản giật (TSG/SG), tăng huyết áp (THA) mạn tính, TSG trên nền THA mạn tính, THA thai kỳ hoặc THA do mang thai nhưng không bị TSG (THATK) và THA hậu sản. Trong tất cả các y văn từ xưa đến nay đều đưa ra tiêu chuẩn THA như điều kiện tiên quyết chẩn đoán TSG. Tuy nhiên, không phải tất cả các trường hợp thai phụ có tình trạng THATK đều xuất hiện hội chứng TSG. Nguy cơ TSG của thai phụ càng cao nếu có xuất hiện THATK, và ranh giới chuyển từ THATK sang TSG cũng rất mong manh. Việc tìm kiếm một dấu chỉ khác báo hiệu nguy cơ TSG là rất cần thiết trong bối cảnh chăm sóc sức khỏe hiện nay, khi nhu cầu sàng lọc, tiên đoán và dự phòng bệnh tật ngày càng tăng cao. Yếu tố có liên quan đến tạo mạch và kháng tạo mạch được sử dụng nhiều trên thế giới, và cũng chứng minh hiệu quả của nó trong tiên đoán và chẩn đoán sớm hội chứng TSG qua nhiều nghiên cứu là sFlt-1 (Soluble fms-like tyrosine kinase 1) và PlGF (Placental Growth Factor). Một phần không thể thiếu trong tiến trình đưa ra một tiêu chuẩn tiên đoán sớm TSG dựa vào nồng độ sFlt-1 và PlGF là cần xác định các giá trị bình thường của nồng độ các yếu tố này trong thai kỳ, đặc biệt là giai đoạn ba tháng giữa thai kỳ ở các thai phụ không THA, hoặc THATK nhưng không xuất hiện TSG. Từ đó tạo ra tiền đề để tiến hành phân tích một bước cao hơn, cung cấp giá trị ngưỡng tham chiếu của sFlt-1, PlGF, tỷ số sFlt-1/PlGF phục vụ mục đích tiên đoán TSG. Đề tài: “Nồng độ sFlt-1, PlGF và tỷ số sFlt-1/PlGF vào tuần thai thứ 24-28 ở thai phụ có nguy cơ cao THATK nhưng không xuất hiện hội chứng TSG tại Khoa Phụ sản – Bệnh viện Đại học Y Dược Thành Phố Hồ Chí Minh”. Mục tiêu: Xác định nồng độ sFlt-1, PlGF và tỷ số sFlt-1/PlGF vào thời điểm 24-28 tuần thai ở các thai phụ có nguy cơ cao THATK nhưng không xuất hiện hội chứng TSG, và sự khác biệt của các yếu tố này giữa các thai phụ THATK so với các thai phụ không THA. Đối tượng nghiên cứu: Tất cả các thai phụ có nguy cơ cao THATK nhưng không xuất hiện TSG cho đến cuối thai kỳ đến khám tại Khoa Phụ sản Bệnh viện Đại Học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh từ 9/2012 đến 8/2013. Phương pháp nghiên cứu: Sử dụng phương pháp nghiên cứu bệnh chứng lồng trong đoàn hệ. Cỡ mẫu: Các thai phụ được chọn vào khi đang mang thai từ tuần 24-28 của thai kỳ, không bị TSG theo tiêu chuẩn ACOG (không bị vừa cao huyết áp, vừa tiểu đạm xuất hiện sau tuần lễ thứ 20 của thai kỳ), có nguy cơ cao, và đồng ý tham gia nghiên cứu. Nghiên cứu loại trừ các thai phụ có vấn đề về tâm thần và những thai phụ không hợp tác hoặc tự nguyện bỏ ngang nghiên cứu. Toàn bộ các thai phụ không xuất hiện hội chứng TSG cho đến khi sanh nhưng có tình trạng THATK được chọn vào nhóm bệnh. Tương ứng với mỗi trường hợp bệnh, chọn trong nhóm thai phụ không THATK tương ứng bắt cặp một cách tương đối theo tuổi mẹ với tỷ lệ 1 bệnh : 5 chứng. Nghiên cứu đã tiến hành trên 84 bệnh nhân với tỷ lệ 14 bệnh nhân THATK : 70 thai phụ không THATK. Như vậy, nhóm thai phụ được chọn phân tích là 84 thai phụ. Tuy nhiên, trong quá trình tiến hành xét nghiệm, có 1 mẫu của bệnh nhân THATK bị hỏng. Như vậy nghiên cứu chỉ khảo sát được tổng mẫu là 83 đối tượng, trong đó có 13 mẫu bệnh nhân THATK. Phương pháp lẫy mẫu: Lấy máu tĩnh mạch tại phòng xét nghiệm, cho vào ống xét nghiệm không có chất chống đông, quay ly tâm với tốc độ 2000 vòng/phút, rút huyết thanh, lưu trữ ở nhiệt độ âm 80oC (phòng xét nghiệm Bộ môn Sinh học phân tử, Đại Học Y Dược TP HCM). Sau khi sản phụ sanh xong, các sản phụ được chọn vào nhóm bệnh, và nhóm chứng. Tiến hành phân tích mẫu máu được lưu trữ của các thai phụ vào tuần thứ 24-28 ở thai phụ không TSG để xác định nồng độ sFlt-1 và PlGF. Công cụ nghiên cứu: Nghiên cứu sử dụng bảng câu hỏi, hồ sơ bệnh án, hồ sơ quản lý thai kỳ, kết quả khám và xét nghiệm của thai phụ để khai thác thông tin. Số liệu được mã hóa và phân tích bằng phần mềm Stata 12. Kết quả: Nồng độ sFlt-1, PlGF huyết tương, và tỷ số sFlt-1/PlGF ở tuần thai 24-28 của thai phụ không có hội chứng TSG tập trung tại khoảng trung vị và tứ phân vị lần lượt là 1.388 pg/ml (752-1.892 pg/ml), 533 pg/ml (369-823 pg/ml), và 2 (1,3-3,4). Tuy so với nhóm thai phụ không THA, ở nhóm thai phụ THATK có nồng độ sFlt-1 và PlGF huyết tương thấp hơn, tỷ số sFlt-1/PlGF cao hơn, nhưng sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê với p tương ứng là 0,254, 0,304, 0,475. Có mối tương quan thuận giữa nồng độ PlGF với tuổi của thai phụ trong nhóm chứng là có ý nghĩa thống kê với r=0,298 và p=0,012. Như vậy, nồng độ PlGF tăng dần theo tuổi của thai phụ không THATK. Kết luận: Nồng độ của sFlt-1, PlGF huyết tương, và tỷ số sFlt-1/PlGF ở tuần thai 24-28 của thai phụ không có hội chứng TSG là rất khác nhau trong các nghiên cứu đã thực hiện trước đây, cũng như so với nghiên cứu của chúng tôi. Chính vì vậy, để đưa ra được giá trị tham chiếu làm cơ sở tiến đến một tiêu chuẩn mới tiên đoán TSG, nghiên cứu tiếp theo cần được tiến hành trên cỡ mẫu lớn hơn, và nhấn mạnh trên cả nhóm không THATK, THATK nhưng không có TSG, và nhóm có hội chứng TSG (sớm, muộn, nhẹ, nặng), trên đối tượng thai phụ VIệt Nam.
#sFlt-1/PlGF
KHẢO SÁT VAI TRÒ CỦA DỊCH ÉP TỎI LÝ SƠN LÊN MỘT SỐ CHỈ SỐ HUYẾT HỌC VÀ CẤU TRÚC GAN, THẬN, LÁCH CHUỘT NHẮT TRẮNG (Mus musculus var. albino) BỊ NHIỄM CHÌ
  Tỏi ( Allium sativum ) là một loại dược liệu được biết đến với khả năng giảm tác động của chì, một kim loại nặng độc hại với sức khỏe và cấu trúc của các cơ quan. Nghiên cứu này tập trung khảo sát hiệu quả của dịch ép tỏi Lý Sơn trong việc bảo vệ chống lại độc tính chì, qua các chỉ số huyết học và cấu trúc gan, thận và lách chuột. 48 chuột, chia thành 6 nghiệm thức: đối chứng (ĐC); chì (Pb); nitrate (N); tỏi (T500); chì kết hợp với dịch ép tỏi Lý Sơn ở liều 250 mg/kg/bw (PbT250); và chì kết hợp với dịch ép tỏi Lý Sơn ở liều 500 mg/kg/bw (PbT500), kéo dài trong 8 tuần. Kết quả cho thấy dịch ép tỏi Lý Sơn (250 mg/kg trọng lượng cơ thể) ban đầu có tác dụng duy trì ổn định các chỉ số huyết học (số lượng tế bào hồng cầu, tiểu cầu, hematocrit) và cấu trúc mô học của gan và thận dưới tác động của chì. Tuy nhiên, tác dụng này chưa được thể hiện rõ trên số lượng tế bào bạch cầu, chỉ số hemoglobin và cấu trúc mô học của lách. Để đánh giá toàn diện hiệu quả bảo vệ chống lại độc tính chì của dịch ép tỏi Lý Sơn, nghiên cứu cần thực hiện các chỉ số sinh hoá máu chuột và kéo dài thời gian nghiên cứu.
#garlic juice #lead toxicity #Ly Son garlic #mouse blood cells
MỘT SỐ HƯỚNG VẬN DỤNG LÍ THUYẾT ĐỘC GIẢ-PHẢN HỒI VÀO DẠY HỌC ĐỌC HIỂU VĂN BẢN VĂN HỌC THEO CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 2018
  Lí thuyết tiếp nhận là m ột trong những cơ sở xây dựng đ ịnh hướng Chương trình Ngữ văn (CTNV) 2018 của Việt Nam về dạy đọc hiểu văn bản văn học ; d o đó , l í thuyết này cần được vận dụng vào thực tiễn dạy học đọc hiểu văn bản văn học ở trường phổ thông một cách đúng đắn. Đ ộc giả-phản hồi (ĐG-PH), một nhánh của lí thuyết tiếp nhận, cho đến nay đã được vận dụng sâu rộng vào việc dạy học đọc hiểu ở trường phổ thông của nhiều nước trên thế giới . Bài viết nghiên cứu các nguyên tắc và biện pháp vận dụng lí thuyết ĐG-PH vào việc khai thác và phát huy phản hồi văn học của học sinh (HS) trong giờ học đọc hiểu văn bản văn học theo CTNV 2018. Phương pháp nghiên cứu được sử dụng là phân tích và tổng hợp lí thuyết, nhằm làm rõ nội hàm khái niệm “sự tương tạo thẩm mĩ” ( Louise Rosenblatt ) và “cộng đồng diễn giải” ( Stanley Fish ) trong lí thuyết ĐG-PH , phân tích định hướng của CTNV 2018 về dạy học đọc hiểu văn bản văn học, tổng hợp các cơ sở lí luận để đề xuất các nguyên tắc và biện pháp dạy học cụ thể cho giáo viên (GV) phổ thông.  
#Louise Rosenblatt #lí thuyết độc giả-phản hồi #Stanley Fish #dạy học đọc hiểu #Chương trình Ngữ văn 2018 của Việt Nam
Tổng số: 71   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6
  • 8